#036 | Điều chỉnh lại hợp đồng khi chính sách thay đổi

12/26/2023

Tình tiết sự kiện:

Công ty A (Nguyên đơn) ký hợp đồng xây dựng với Công ty B (Bị đơn). Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Nhà nước có điều chỉnh lương tối thiểu và phía Nguyên đơn yêu cầu điều chỉnh lại hợp đồng. Yêu cầu điều chỉnh lại hợp đồng đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.

Bài học kinh nghiệm:

“Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” (Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005), “mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng” (khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015). Với quy định này, về nguyên tắc những gì các bên đã thỏa thuận không được thay đổi mà không có sự đồng ý của hai bên. Tuy nhiên, nhiều hợp đồng được tiến hành trong thời gian dài và trong thời gian này Nhà nước có thể có những thay đổi về chính sách tác động trực tiếp việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này, hợp đồng có được điều chỉnh lại không?

Trong vụ việc trên, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thực hiện việc điều chỉnh giá hợp đồng bằng việc điều chỉnh chi phí nhân công, chi phí máy thi công (phần nhân công). Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xác định “Hợp đồng và giá hợp đồng được ký vào thời điểm chi phí nhân công, máy thi công (phần nhân công) đã được tính với mức lương tối thiểu vùng là 880.000 VND/tháng”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “trong thời gian thực hiện hợp đồng, Nhà nước đã có sự thay đổi chính sách, chế độ tiền lương thông qua việc Chính phủ đã ban hành hai Nghị định 108/2010/NĐ-CP và Nghị định 70/2011/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng mới đối với người lao động áp dụng tại địa bàn Dự án là 1.200.000đ/tháng kể từ ngày 01/01/2011 đến ngày 30/09/2011 và 2.000.000đ/tháng kể từ ngày 01/10/2011 đến 31/12/2012 nên giá hợp đồng cần phải được điều chỉnh”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã quyết định “buộc Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn giá trị điều chỉnh phần chi phí phân công, chi phí máy thi công (phần nhân công) cho khối lượng công việc đã được nghiệm thu thanh toán từ 01/01/2011 đến ngày 30/06/2012 theo hợp đồng là 9.710.429.000 VND”.

Ở trên, chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài điều chỉnh lại hợp đồng xuất phát từ việc Nhà nước thay đổi về chính sách tiền lương, chế độ tiền lương. Để làm được việc này, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào hai loại cơ sở:

Thứ nhất, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào thỏa thuận của các Bên trong hợp đồng như Điều 8 của hợp đồng với nội dung “trường hợp có sự thay đổi thiết kế, chính sách chế độ của Nhà nước… và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, giá trị hợp đồng sẽ được điều chỉnh tương ứng” và “điều chỉnh do Nhà nước có sự thay đổi chính sách, chế độ: thay đổi tiền lương, thay đổi giá nguyên vật liệu do Nhà nước quản lý giá hoặc thay đổi chế độ chính sách mới làm thay đổi mặt bằng giá đầu tư xây dựng công trình”.

Thứ hai, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào một số quy định của pháp luật như Luật xây dựng năm 2003 trong đó có quy định tại điểm b khoản 1 Điều 109 rằng “Hợp đồng trong hoạt động xây dựng chỉ được điều chỉnh khi được người quyết định đầu tư cho phép trong các trường hợp sau đây: Khi Nhà nước thay đổi các chính sách có liên quan”, Luật đấu thầu năm 2005 trong đó có quy định tại điểm a khoản 1 Điều 57 với nội dung “việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng theo đơn giá, hình thức hợp đồng theo thời gian và được thực hiện theo quy định sau đây: Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp đồng thì được điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời điểm các chính sách này có hiệu lực”. Ngoài ra, Hội đồng Trọng tài còn viện dẫn văn bản trả lời của Bộ xây dựng, Bộ tư pháp cho biết hướng điều chỉnh hợp đồng.

Như vậy, chúng ta thấy hợp đồng được giao kết hợp pháp đã được điều chỉnh lại và sự điều chỉnh này ràng buộc các Bên trong hợp đồng. Hội đồng Trọng tài đã dựa vào thỏa thuận của các Bên cũng như quy định của pháp luật nhưng thực ra, các quy định nêu trên cho phép điều chỉnh hợp đồng mà không cần có sự thỏa thuận của các Bên. Tuy nhiên, việc các Bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lại hợp đồng càng làm cho việc điều chỉnh lại hợp đồng dễ được triển khai. Vì thế, doanh nghiệp nên mạnh dạn đưa các nội dung cho phép điều chỉnh lại hợp đồng vào chính hợp đồng của mình bên cạnh những quy định cho phép điều chỉnh hợp đồng đã trích dẫn ở trên.

Quốc hội đã ban hành Luật xây dựng mới năm 2014 và vẫn giữ lại quy định theo hướng cho phép điều chỉnh lại hợp đồng mà không cần có sự thỏa thuận của các bên tại Điều 143 theo đó “Điều chỉnh hợp đồng xây dựng gồm điều chỉnh về khối lượng, tiến độ, đơn giá hợp đồng và các nội dung khác do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Điều chỉnh hợp đồng xây dựng chỉ được áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng. Các trường hợp được điều chỉnh hợp đồng xây dựng: a) Do các bên thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với các quy định của Luật này và pháp luật khác có liên quan; b) Khi Nhà nước thay đổi các chính sách làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp các bên hợp đồng có thỏa thuận khác”. Bộ luật dân sự năm 2015 đã kế thừa các quy định trên và có quy định chung tại Điều 420 về Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Đây là những quy định cho phép điều chỉnh lại hợp đồng khi Nhà nước có sự thay đổi chính sách và doanh nghiệp nên biết để bảo vệ quyền lợi của mình.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI